SHTT - Sở hữu trí tuệ Thảo luận lần hai - QUYỀN TÁC GIẢ VÀ QUYỀN LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN TÁC GIẢ


1. Sự cần thiết phải bảo hộ quyền liên quan đến quyền tác giả. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định về quyền liên quan đến quyền tác giả.
1.1    Sự cần thiết phải bảo hộ quyền liên quan đến quyền tác giả
Quyền liên quan đến quyền tác giả là một quyền liên quan mật thiết đến quyền tác giả.
Chủ thế của quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm[1]: người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát thanh truyền hình tuy là những người sử dụng tác phẩm của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, song là những người sử dụng đặc biệt. Họ đã đóng vai trò rất lớn giúp cho tác giả truyền đạt được tác phẩm của mình đến công chúng. Các tác phẩm của họ làm ra cũng có thể bị sao chép và làm lậu. Tình hình đó yêu cầu phải có quy định về quyền liên quan. Nếu không, những người lao động trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật không kiểm soát nổi quyền khai thác thành quả lao động của mình – họ là chủ thể của quyền liên quan[2].
Bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả có ý nghĩa quan trọng đối với tác giả bởi vì cùng với việc bảo đảm thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung sẽ tạo động lực thúc đẩy kinh tế góp phần thu hút đầu tư nước ngoài. Tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ nếu không kiểm soát được sẽ gây trở ngại cho phát triển kinh tế vì thiếu môi trường cạnh tranh cho mọi doanh nghiệp. Hơn nữa, hiện nay Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới và một số công ước, hiệp ước song phương và đa phương khác. Với tư cách đó, Việt Nam buộc phải xây dựng một khung pháp lý để bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ như đã cam kết[3].
Khác với tài sản thông thường, đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là một tài sản đặc biệt, phi vật thể. Trong một chừng mực nào đó, tài sản này đổi khi tồn tại chủ yếu dưới dạng thức mà khả năng làn truyền của nó rất rộng lớn (phần mềm máy tính, nhạc lưu dưới dạng MP3 hay tương tự). Đồng thời, tài sản này cũng dễ được vật chất hoá hàng loạt. Một khi bị xâm quyền sở hữu trí tuệ không chỉ gây hậu quả tiêu cực cho người nắm giữ quyền bị xâm phạm đó mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều người tiêu dùng khác, cũng như ảnh hưởng tiêu cực đối với xã hội[4].
1.2.   Lịch sử hình thành và phát triển các quy định về quyền liên quan đến quyền tác giả
        1.2.1 Bảo hộ quyền liên quan trên thế giới.
Thái độ với các hoạt động sáng tạo đã thay đổi khi các thành quả là các phát minh và sáng chế bắt đầu được bảo vệ bởi pháp luật. Sự thay đổi này chỉ thực sự bắt đầu từ thế kỷ 17 và 18. Lúc này đã có ít nhiều sự quan tâm đến bảo hộ những sáng tạo đó..
Cuối thế kỷ 18, việc bảo hộ quyền nhân thân của tác giả được bảo đảm bằng pháp luật trong hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Sở hữu trí tuệ chỉ thực sự chiếm ưu thế trên quy mô toàn cầu cuối thế kỷ 19 với sự ra đời của công ước Paris 1883 và công ước Berne 1886.
Việc bảo hộ quyền tác giả trên phạm vi quốc tế chỉ có được sau các nỗ lực nhằm xây dựng mà kết quả là sự ra đời của hàng loạt các công ước, chủ yếu trong khuôn khổ của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO).
Hiện nay, hơn một nửa các nước trên thế giới hiện là thành viên của hệ thống bảo vệ sở hữu trí tuệ toàn cầu (bằng việc gia nhập các công ước của WIPO) và xây dựng và áp dụng hệ thông pháp luật quốc gia trên cơ sở các tiêu chuẩn thống nhất quốc tế.
1.2.2 Lịch sử hình thành và phát triển các quy định về quyền liên quan đến quyền tác giả tại Việt Nam[5].
         Tại Việt Nam tư tưởng về quyền tự do sáng tạo nghệ thuật, khoa học đã được thể hiện trong các văn bản pháp luật từ Hiến pháp 1946 đến Hiến pháp 1992. Tư tưởng này tiếp tục được ghi nhận và đồng thời khẳng định việc Nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền tác giả, Điều 60 Hiến pháp 1992 qui định: “Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hạot động văn hóa khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp” [6]. Văn bản pháp lý đầu tiên qui định chi tiết về vấn đề quyền tác giả là Nghị định 142/CP ngày 14/11/1986.
            Nghị định 142/CP không còn phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước. vì vậy, ngay từ 1990 Bộ Văn hóa thông tin nay là Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch đã được giao soạn thảo Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả để thay thế. Đến năm 1994, chúng ta đã hoàn thành xong việc soạn thảo Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả, và sau đó được Ủy ban thường vụ quốc hội thông qua ngày 2/12/1994. Pháp lệnh gồm 7 chương 47 điều qui định khá chi tiết về quyền tác giả và phù hợp với thông lệ quốc tế.
              Pháp lệnh trên thi hành chưa được một năm, thì năm 1995 BLDS được ban hành, trong đó có dành riêng phần VI qui định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong đó có quyền tác giả và quyền liên quan. Tại BLDS 1995, các qui định về quyền tác giả, quyền liên quan được tập trung tại phần VI “Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ”, Chương 1 “Quyền tác giả”, Mục 4 “Quyền, nghĩa vụ của ngừời biểu diễn, của tổ chức sản xuất băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình, tổ chức phát thanh, truyền hình”. Nhìn chung, các qui định này bao quát khá toàn diện các vấn đề, từ định nghĩa tác giả chủ sở quyền tác giả, người biểu diễn, tổ chức ghi âm, ghi hình, tổ chức phát thanh truyền hình, tới quyền và nghĩa vụ của họ, địa vị pháp lý của họ. 
        Để hướng dẫn thi hành các qui định về quyền tác giả, quyền liên quan tại BLDS, nhiều văn bản dưới luật đã được ban hành.
          25/12/2004 của Quốc hội về chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của quốc hội năm 2005, cùng với nhu cầu cấp bách phải có một hành lang pháp lý về bảo hộ sở hữu trí tuệ đáp ứng được các qui tắc chung của thế giới, đủ điều kiện gia nhập WTO của Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ đã được Chính phủ giao chủ trì xây dựng Luật sở hữu trí tuệ. Trong một thời gian rất ngắn, từ ngày 27/12/2004 thành lập Ban soạn thảo liên nghành đến ngày 7/2/2005 thì bản Dự thảo Luật SHTT (lần 2) đã được hoàn chỉnh để gửi xin ý kiến. Dự thảo này gồm 14 chương với 479 điều điều chỉnh toàn diện quyền tác giả, quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng mới.
            Tại kỳ họp Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10, ngày 29/11/2005 Luật SHTT (luật số 50/2005/QH10) đã được Quốc hội thông qua với số phiếu gần như tuyệt đối (368/370) và có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2006. Ngay sau khi Luật SHTT 2005 ra đời và đi vào thực tiễn điều chỉnh các quan hệ có liên quan trong xã hội, Chính phủ, các Bộ và Cơ quan có liên quan đã ban hành các văn bản hướng về việc thực hiện các qui định của Luật SHTT 2005. Trong lĩnh vực quyền liên quan, có các văn bản hướng dẫn thi hành luật SHTT 2005.
           Trải quan hơn 3 năm kể từ ngày có hiệu lực, có một số các qui định trong Luật SHTT 2005 đã không còn phù hợp với thực tế. chính các qui định đó gây cản trở cho hoạt động của các chủ thể liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có quyền liên quan. Vì vậy, việc sửa đổi bổ sung một số điều của luật SHTT 2005 là cần thiết. Do đó, ngày 19/06/2009 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT 2005 đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/2010.
          Hiện nay, trên toàn diện quốc tế, quyền liên quan được bảo hộ tại các Công ước như Rome, Geneva, Brussel và các Hiệp định TRIPS, WPPT. Việt Nam hiện cũng đã gia nhập hầu hết các điều ước quốc tế.
           Theo thông tin từ trang web www.ompi.int của tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), Tổng giám đốc WIPO đã có Thông báo số 83 về việc Việt Nam gia nhập Công ước Geneva. Công ước có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 6/7/2005.
         Một trong các Công ước quan trọng về bảo hộ đối với quyền của Người biểu diễn, Nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng mà Việt Nam đã gia nhập là Công ước Rome. Công ước Rome ra đời năm 1961 tại Rome Italia, Việt Nam chính thức gia nhập và trở thành viên của công ước vào ngày 01/03/2007 và là thành viên thứ 86 của công ước này.
        Công ước quốc tế liên quan đến việc phân phối tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh được ra đời tại Brussels ngày 21/05/1974. Việt Nam trở thành thành viên chính thức của công ước này vào ngày 12/01/2006.
          Ngoài các Điều ước quốc tế, việc ký kết các Hiệp định song phương về bảo hộ SHTT cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Một trong các Hiệp định lớn và quan trọng đối với Việt Nam là Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
2. Hãy tìm ít nhất hai ví dụ trên thực tế (các tranh chấp trong thực tiễn, khuyến khích sinh viên tìm được bản án của vụ việc) về hành vi xâm phạm quyền liên quan đến quyền tác giả.
Ví dụ 1:
Tháng 5.1996, sau khi Sài Gòn Video sản xuất băng cassette có tựa đề “Tình khúc Trần tiến – Tạm biệt chim én” và tung ra thị trường, nhạc sỹ Trần Tiến đã có đơn khiếu nại gửi đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc Sài Gòn Video đã sử dụng 10 ca khúc của ông để sản xuất kinh doanh mà không hề xin phép, không trả tiền nhuận bút; tự ý cắt bỏ lời 3 của bài hát “Tạm biệt chim én”, bỏ một câu kết của bài “Cô bé vô tư”, sử dụng ba câu trong hai bài “Ngọn lửa cao nguyên” và “Chiếc vòng cầu hôn”, để ca sỹ Trung Đức hát sai một nốt nhạc trong bài “Tùy hứng lí qua cầu” và thay đổi tiết tấu trong bài “Vết chân tròn trên cát”; ngoài ra còn in ở bìa trang 2 hình ảnh cô gái ăn mặc hở hang, làm xuyên tạc nội dung ca khúc của ông. 
Trong đơn khởi kiện của mình, nhạc sỹ đã yêu cầu Sài Gòn Video phải công khai xin lỗi ông trên các phương tiện thông tin đại chúng về các hành vi vi phạm trên, đồng thời phải bồi thường cho ông 50 triệu đồng (gồm tiền nhuận bút, tiền bồi thường tổn hại về vật chất và tinh thần, trong đó có khiến cho hợp đồng giữa nhạc sỹ Trần Tiến và Công ty vật phẩm văn hóa Thành phố Hồ chí Minh (kí ngày 16.4.1996) về việc sử dụng một số ca khúc của ông đã không thực hiện được).
Sau phiên tranh luận tại tòa án, Hội đồng xét xử TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã căn cứ vào Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả về quyền tác giả năm 1994 (gọi tắt là Pháp lệnh) và các văn bản pháp luật có liên quan và tuyên bố:
- Chấp nhận một phần yêu cầu của nhạc sỹ Trần Tiến buộc Sài Gòn Video phải xin lỗi công khai nhạc sỹ trên các phương tiện thông tin đại chúng vì các hành vi vi phạm trên.
- Buộc Sài Gòn Video phải trả thù lao sử dụng 10 bài hát của nhạc sỹ và bồi thường thiệt hại hợp đồng đã ký giữa nhạc sỹ và Công ty vật phẩm văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh.
Ví dụ 2:
Nhạc sĩ Vũ Quốc Việt kí hợp đồng bán ca khúc làm nhạc phim “Anh em nhà bác sĩ” với công ty Vietcom ngày 30/12/2009, trong đó có ca khúc “Hạnh phúc mong manh”. Sau đó, Vietcom đã đồng ý cho Galaxy Mobile kinh doanh mà không hỏi ý kiến nhạc sĩ Vũ Quốc Việt. Công ty TNHH MTV (đại diện cho Vũ Quốc Việt) lên tiếng cho rằng “Hạnh phúc mong manh” không phải là ca khúc độc quyền trong phim “Anh em nhà bác sĩ” mà thuộc quyền sở hữu của Vũ Quốc Việt.
Vấn đề nằm ở chỗ là trong hợp đồng giữa Vũ Quốc Việt và Công ty Vietcom không ghi tên của 2 ca khúc độc quyền, nên Vũ Quốc Việt thì nói phim Anh em nhà bác sĩ không độc quyền ca khúc Hạnh phúc mong manh, còn Vietcom thì ngược lại.
Trong hợp đồng giữa Vũ Quốc Việt và Công ty Vietcom không ghi tên 2 ca khúc độc quyền vì lúc ký hợp đồng thì nhạc sĩ Vũ Quốc Việt chưa sáng tác, nên chưa có tựa đề bài hát để ghi vào. Tuy nhiên trong một buổi liên hoan, có hàng chục nhân viên Vietcom tham gia, nhạc sĩ Vũ Quốc Việt đã tuyên bố là ngoài 2 ca khúc độc quyền, sẽ “khuyến mãi” thêm cho Vietcom 1 ca khúc nữa.
Thật sự là giữa Công ty Vietcom và  nhạc sĩ Vũ Quốc Việt không có một giấy giao nhận nào về 2 ca khúc độc quyền như trong hợp đồng. Tuy nhiên, nhạc sĩ Vũ Quốc Việt có giao cho Vietcom một đĩa nhạc, trên đó có ghi “Hạnh phúc mong manh nhạc film AENBS 2010 Vũ Quốc Việt”. Đĩa nhạc này là kết quả của quá trình làm việc giữa 2 phía. Nhạc sĩ Vũ Quốc Việt thì nói rằng 2 ca khúc “Mơ ngày bình yên” và “Ngày em 20” là 2 ca khúc độc quyền, còn “Hạnh phúc mong manh” là ca khúc “khuyến mãi”. Bà Bảo Trâm, Giám đốc Công ty Vietcom lại nói 2 ca khúc “Mơ ngày bình yên” và “Hạnh phúc mong manh” là 2 ca khúc độc quyền còn “Ngày em 20” là ca khúc “khuyến mãi”. [7]
3. Nghiên cứu tình huống và trả lời các câu hỏi:
            Năm 1966, ông Bảo là phóng viên làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam đã chụp tấm ảnh người phi công Mỹ bị bắt tại Hà Bắc và đặt tên bức ảnh là “Từ thần sấm lộn cổ xuống xe trâu”. Năm 2006, ông Bảo phát hiện NXB Văn hóa dân tộc xuất bản sách “Việt Nam cuộc chiến 1858-1975”, trong đó có đăng bức ảnh trên mà không được sự đồng ý của ông Bảo cũng như Thông tấn xã Việt Nam. Đồng thời, trong cuốn sách cũng không ghi tên ông Bảo là tác giả và khi đăng đã cắt xén một phần bức ảnh này. Do đó, ông Bảo đã khởi kiện NXB Văn hóa dân tộc tại Tòa án cùng với yêu cầu đăng cải chính, xin lỗi trên các phương tiện thông tin đại chúng và bồi thường tổn thất tinh thần 10.000.000 đồng do bức ảnh bị cắt xén gây ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của ông. Yêu cầu thanh toán tiền nhuận bút 1.000.000 đồng.
Tại phiên tòa, ông Cần – tác giả của cuốn sách “Việt Nam cuộc chiến 1858-1975” trình bày: Bức ảnh người phi công Mỹ bị bắt mà ông sử dụng trong sách của mình được lấy từ cuốn sách “Chỉ có một Việt Nam” của tác giả người Hungary Gyorgymatto xuất bản năm 1972 chứ không phải từ nguyên gốc bức ảnh của ông Bảo. Trong cuốn sách này, tác giả Hungary không ghi tên ông Bảo là tác giả đồng thời cũng đã cắt xén bức ảnh trên.
Xem xét các chứng cứ, Tòa án nhận thấy bức ảnh sử dụng trong sách của ông Cần và tác giả Hungary là giống nhau, bên cạnh đó đều không ghi tên tác giả là ông Bảo.
Câu hỏi:
a)   Căn cứ xác lập quyền tác giả? Trong vụ việc trên, chủ thể nào có quyền tác giả đối với bức ảnh chụp người phi công Mỹ?
Căn cứ xác lập quyền bao gồm hai điều kiện:
Thứ nhất: tác phẩm đó được sáng tạo ra
Thứ hai: tác phẩm được thể hiện dưới hình thức nhất định
Cơ sở pháp lý khoản 1 Điều 6 Luật SHTT.
Ngoài ra để được bảo hộ thì tác phẩm còn cần phải thỏa mãn các điều kiện khác như phải đảm bảo hài hòa lợi ích của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ với lợi ích công cộng, không trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng, không gây hại cho quốc phòng an ninh (khoản 1 Điều 8 Luật SHTT) và không phải là các loại hình quy định tại Điều 15 Luật SHTT.
Từ những căn cứ xác lập đã nêu, xét trong vụ việc trên, thì theo nhóm ông Bảo là người có quyền tác giả đối với bức ảnh chụp người phi công Mỹ.
b)   Hành vi của ông Cần có xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với bức ảnh trên không, vì sao?
Ông Cần đã thực hiện các hành vi:
- Đăng bức ảnh “Từ thần sấm lộn cổ xuống xe trâu” mà không được sự đồng ý của ông Bảo cũng như Thông tấn xã Việt Nam;
- Không ghi tên ông Bảo là tác giả và khi đăng đã cắt xén một phần bức ảnh.
Căn cứ vào khoản 5, khoản 6 Luật SHTT thì caccs hành vi trên của ông Cần đã xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
c)    Các yêu cầu của ông Bảo có được chấp nhận không? Nêu cơ sở pháp lý.
Các yêu cầu của ông Bảo được chấp nhận
Cơ sở pháp lý
3. Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định tại khoản 1 Điều này và khoản 3 Điều 19 của Luật này phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả.”
2. Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về tinh thần cho mình thì có quyền yêu cầu Tòa án quyết định mức bồi thường trong giới hạn từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tùy thuộc vào mức độ thiệt hại.’’
d)   Theo quy định của Luật SHTT hiện hành, có những biện pháp nào để xử lý hành vi xâm phạm quyền tác giả? Trong tranh chấp trên, biện pháp nào đã được áp dụng?
Theo quy định của luật SHTT hiện hành thì có những biện pháp để xử lý đối với hành vi vi phạm quyền tác giả bao gồm:
- Quyền tự bảo vệ
- Bảo vệ quyền tác giả bằng biện pháp dân sự
- Bảo vệ quyền tác giả bằng biện pháp hành chính
- Bảo vệ quyền tác giả bằng biện pháp hình sự
Trong tranh chấp trên thì biện pháp bảo vệ quyền tác giả đã được áp dụng.
4. Nghiên cứu Bản án số 213/2014/DS-ST (Tòa án nhân dân quận Tân Bình) ngày 14/8/2014. Và trả lời các câu hỏi sau:
a)   Ai là tác giả tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian”? Tác phẩm này có được bảo hộ quyền tác giả không? Vì sao?
Nguyên đơn là tác giả của tác phẩm. Tác phẩm này được bảo hộ quyền tác giả, căn cứ vào giấy chứng nhận đăng ký bản quyền số 169/2013/QTG ngày 07/01/2013, có kèm theo bản photo hình ảnh đăng ký bản quyền.
b)   Từng “cụm hình ảnh” trong tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian” có được bảo hộ quyền tác giả không? Vì sao?
Theo quan điểm của Tòa thì không. Xuất phát từ việc xem xét nguồn gốc của các cụm hình ảnh này là những hình ảnh đã được lưu truyền trong văn hóa dân gian từ lâu đời (hình ảnh múa lân, ông địa,…) các tác giả chỉ thay đổi một số đường nét và sắp xếp theo một bố cục và hình thức thể hiện để tạo nên tác phẩm riêng của mình cùng với nhận định rằng quyền tác giả đối với tác phẩm của ông Lộc ở đây được xác định chính là bố cục sắp xếp, hình thức thể hiện trong một tổng thể thống nhất không thể tách rời ra theo từng bộ phận để xác định quyền tác giả. Mặt khác, ông Nguyễn Văn Lộc cũng trình bày do trình bày, theo trình tự đăng ký quyền tác giả nếu muốn bảo hộ cho từng cụm hình ảnh ông phải lập từng hồ sơ tương ứng với từng cụm hình ảnh (ở đây là 05 cụm hình ảnh tương ứng với 05 hồ sơ) để đăng ký quyền tác giả. Điều này sẽ mất nhiều thời gian nên ông đã gộp chung cả 05 cụm hình vào trong một tác phẩm để đăng ký quyền tác giả. Từ đó có thể nhận thấy quyền tác giả của ông Nguyễn Văn Lộc đối với từng cụm hình riêng rẽ chưa được xác lập.
c)    Hành vi của bị đơn có xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của nguyên đơn không? Nêu cơ sở pháp lý.
Theo nhóm thì hành vi của bị đơn không xâm phạm quyền sở hữu của nguyên đơn vì:
Thứ nhất, căn cứ chứng cứ do ông Nguyên đơn – ông Lộc cung cấp hình ảnh đã được trang trí tại showroom của công ty Mặt Trời Mọc, Hội đồng xét xử xét thấy tác phẩm của Nguyên đơn và hình ảnh trang trí tại showroom của Bị đơn có bố cục và hình thức thể hiện là khác nhau, những hình ảnh này do ông chụp bằng điện thoại và không có gì chứng minh là các bức tranh được trang trí tại showroom đúng với nguyên bản là các bức tranh của ông.
Thứ hai, nguồn gốc của các cụm hình ảnh được thể hiện trong tác phẩm của ông Lộc là những hình ảnh đã được lưu truyền trong văn hóa dân gian từ lâu đời (hình ảnh múa lân, ông địa, liễn chúc tết, ông đồ viết chữ …) các tác giả chỉ thay đổi một số đường nét và sắp xếp theo một bố cục và hình thức thể hiện để tạo nên tác phẩm riêng của mình. Do đó, quyền tác giả của các hình ảnh riêng rẽ đã được lưu truyền lâu đời trong văn hóa dân gian không thể xác định là của ai.
Thứ ba, quyền tác giả đối với tác phẩm ở đây được xác định chính là bố cục sắp xếp, hình thức thể hiện trong một tổng thể thống nhất không thể tách rời ra theo từng bộ phận để xác định quyền tác giả. Nguyên đơn đã gộp chung cả 05 cụm hình vào trong một tác phẩm để đăng ký quyền tác giả. Từ đó có thể nhận thấy quyền tác giả của ông Lộc đối với từng cụm hình riêng rẽ chưa được xác lập. Công ty Đăng Viễn cũng trình bày là không sử dụng tác phẩm của ông Lộc để trang trí tại showroom của công ty Mặt Trời Mọc, mà công ty Đăng Viễn sưu tầm, mua lại các hình ảnh riêng rẽ tại các websites (vectordep.vn, nguyenthehien.com) từ đó thiết kế, sắp xếp, bố cục hình thành hình thức thể hiện không khí Tết dân gian cho tác phẩm trang trí của mình. Các biểu tượng thuộc về văn hóa dân gian được lưu truyền lâu đời (như thầy đồ viết chữ, múa lân, liễn chúc tết, hoa mai, hoa đào, trẻ em vui chơi với pháo ….) thì mỗi người có sự hình dung và thể hiện riêng của mình nhưng bản thân mỗi một biểu tượng riêng rẽ không thể tự thân tạo nên một tác phẩm để thể hiện không khí tết dân gian mà các biểu tượng này phải được sắp xếp, thể hiện trong những bố cục chỉnh thể thì mới có hình thành nên tác phẩm mang thông điệp và nội dung cụ thể.
Thứ tư, hợp đồng giữa Công ty Mặt Trời Mọc và Công Ty Đăng Viễn đã hoàn thành và hai bên đã nhiệm thu, thanh lý vào ngày 05/12/2012, trước ngày ông Lộc được cấp Giấy chứng nhận đăng ký bản quyền ngày 07/01/2013. Do vậy không thể nói Công Ty Đăng Viễn hay Công ty Mặt Trời Mọc vi phạm quyền tác giả của ông Nguyễn Văn Lộc vì không có hành vi vi phạm được quy định tại điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ.
d)   Việc bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian có những điểm khác biệt nào so với các loại hình tác phẩm khác?
Điều kiện để một tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả là phải đảm bảo tính nguyên gốc của nó, tuy nhiên tác phẩm văn học dân gian với đặc trưng của nó là tính dị bản, do đó nó sẽ không đảm bảo được tính nguyên gốc. Tác phẩm văn học dân gian không bao giờ có thể biết được người đầu tiên sáng tác ra nó, hiện nay rất nhiều các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian giống nhau về nội dung nhưng vẫn có nhiều chi tiết khác nhau ví dụ như địa điểm trong tác phẩm, tên nhân vật, nơi xuất xứ,..những chi tiết khác nhau đó tạo ra những dị bản khác nhau, tất cả các dị bản đó đều tự động được bảo hộ mà không cần đảm bảo tính nguyên gốc của tác phẩm. Mỗi dị bản đó lại trở thành một tác phẩm, văn học dân gian của một cộng đồng làng xã nào đó, không biết đâu là tác phẩm gốc, đâu là tác phẩm được "cải biên", cũng không biết được đâu là tác giả sáng tạo ra nó bởi đặc trưng tính truyền miệng, do đó chúng cần được tôn trọng và bảo vệ như nhau.
Bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian không phụ thuộc vào việc định hình tác phẩm, đây là một điểm khác biệt nữa so với điều kiện bảo hộ chung đối với bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm sáng tạo khác. Một điều kiện để được bảo hộ quyền tác giả là các tác phẩm phải được thể hiện dưới một hình thức nhất định hay nói cách khác quyền tác giả bảo hộ hình thức sáng tạo, tuy nhiên hình thức chủ yếu một tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian được lưu truyền đó là truyền miệng, không có một hình thức nhất định nào cho nó, bởi vậy mà tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian sẽ được bảo hộ không phụ thuộc vào việc định hình. Các thể loại tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian thuộc hình thức ngôn từ ( truyền miệng), hay những điệu múa, làn điệu dân ca như cải lương, tuồng, chèo,..không thể bó buộc một hình thức cố định nào cho chúng, chúng tự động được bảo hộ mà không cần định dạng. Khoản 1 điều 20 nghị định 100 về quyền tác giả và quyền liên quan đã quy định rất rõ "tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian được bảo hộ không phụ thuộc vào việc định hình".[8]
5. Đọc, nghiên cứu Bản án số 5 “Tác phẩm phái sinh” Chương 2 (gồm cả phần tình huống và bình luận) trong Sách tình huống Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam[9] và trả lời các câu hỏi sau đây:
1/ Theo quy định của pháp luật SHTT, tác phẩm phái sinh là gì? Đặc điểm của tác phẩm phái sinh?
Cơ sở pháp lý: khoản 8 điều 2 Luật sửa đổi bổ sung của Luật sở hữu trí tuệ năm 2009
“ Tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn.”
Đặc điểm của tác phẩm phái sinh: Tác phẩm phái sinh có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, tác phẩm phái sinh chỉ được hình thành trên cơ sở một/những tác phẩm đã tồn tại. Tác phẩm đã tồn tại có thể còn thời hạn hoặc hết thời hạn bảo hộ quyền công bố tác phẩm và quyền tài sản. Quyền cho làm tác phẩm phái sinh thuộc nhóm quyền tài sản đối với tc phẩm, quyền này được quy định tại điểm a khoản 1 điều 20 Luật SHTT. Do đó, có thể tồn tại hai tình huống :
– Tình huống 1: sáng tạo tác phẩm phái sinh mà không cần sự cho phép của chủ sở hữu tác phẩm  gốc;
– Tình huống 2: sáng tạo tác phẩm phái sinh, nhưng nhất thiết phải được sự cho phép của chủ sở hữu tác phẩm gốc.
Trong cả hai tình huống trên thì các quyền nhân thân được quy định tại khoản 1, 2, 4 điều 19 Luật SHTT (sau đây gọi tắt là quyền nhân thân không thể chuyển giao)luôn luôn tồn tại, do đó ngay cả trong tình huống 1 thì người sáng tạo tác phẩm phái sinh vẫn phải tôn trọng quyền nhân thân không thể chuyển giao của tác giả tác phẩm gốc. Thuật ngữ tác phẩm gốc vừa nêu là tác phẩm mà người sáng tạo tác phẩm phái sinh dựa trên nền của nó để sáng tạo tác phẩm (phái sinh) của mình.
Thứ hai, về hình thức thể hiện của tác phẩm phái sinh, pháp luật quyền tác giả không bảo hộ nội dung ý tưởng mà chỉ bảo hộ hình thức thể hiện của ý tưởng. Mặt khác, tác phẩm phái sinh không phải là bản sao của tác phẩm gốc. Do đó, trong nhiều trường hợp hình thức thể hiện của tác phẩm phái sinh phải khác biệt hoàn toàn hoặc khác biệt từng phần với hình thức thể hiện của tác phẩm gốc.
Thứ ba, về tính nguyên gốc, tác phẩm phái sinh phải do tác giả tự mình sáng tạo nên mà không sao chép từ tác phẩm/những tác phẩm khác. Thuật ngữ “tác phẩm khác” được hiểu là kể cả tác phẩm của chính tác giả đó. Để một tác phẩm phái sinh được bảo hộ thì nó phải mang dấu ấn sáng tạo của tác giả. Tuy nhiên, nếu ranh giới giữa sáng tạo từng phần và sáng tạo hoàn toàn là dễ nhận biết, ranh giới giữa sáng tạo tác phẩm phái sinh và xâm phạm quyền tác giả của tác phẩm gốc là khó nhận biết. Sự xâm phạm này thường thể hiện ở việc xâm phạm quyền nhân thân không thể chuyển giao trong quyền tác giả.
Thứ tư, về dấu ấn của tác phẩm gốc trong tác phẩm phái sinh, mặc dù tác phẩm phái sinh phải đảm bảo tính nguyên gốc như vừa phân tích, nhưng dấu ấn của tác phẩm gốc phải được thể hiện trong tác phẩm phái sinh, có nghĩa là khi nhận biết tác phẩm phái sinh thì công chúng phải liên tưởng đến tác phẩm gốc, sự liên tưởng này được thể hiện qua nội dung của tác phẩm gốc.
Cũng cần nhắc lại là pháp luật quyền tác giả không bảo hộ nội dung của tác phẩm, do đó sự liên tưởng về nội dung giữa tác phẩm phái sinh với tác phẩm gốc không làm mất đi tính nguyên gốc của tác phẩm phái sinh
2/ Với hướng lập luận của Tòa án, hành vi của Hãng phim truyện I và đạo diễn Lộc có xâm phạm quyền tác giả của ông Ánh không? Đoạn nào trong bản án thể hiện điều này?
Với hướng lập luận củA Tòa án nhân dân tối cao thì hành vi của Hãng phim truyện I và đạo diễn Lộc không xâm phạm quyền tác giả của ông Ánh.
Trích đoạn: “ Xét toàn bộ các tài liệu, chứng cứ do các bên đương sự xuất trình, các luận cứ mà các bên đương sự và luật sư bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn (ở giai đoạn giám đốc thẩm) diễn giải thì kết luận nêu trên của Hội đồng giám định là phù hợp với thực tế. Như vậy, khi làm phim, Hãng phim truyện I (mà người được giao nhiệm vụ làm đạo diễn là ông Phạm Lộc) có sửa chữa, bổ sung kịch bản văn học nhưng không đến mức thay đổi hoàn toàn chủ đề, nội dung kịch bản như đánh gái của ông Ánh. Do đó, Hãng phim truyện I và ông Phạm Lộc không vượt quá quyền đã được xác định tại điều 4 của Hợp đồng số 174/PT1-HĐ ngày 11/8/1997 và các quy định của pháp luật về quyền tác giả. Án sơ thẩm đã bác yêu cầu của ông Ánh là có cơ sở, đúng pháp luật.”
3/ Pháp luật nước ngoài có quy định nào về việc bảo hộ tác phẩm phái sinh?
Theo pháp luật Hoa Kỳ quy định tác phẩm phái sinh là “ tác phẩm được hình thành trên cơ sở một hoặc nhiều tác  phẩm đã có như là các tác phẩm dịch, các tác phẩm được phổ nhạc, được chuyển thê thành kịch, được tiêu thuyết hóa, được điện ảnh hóa, âm nhạc hóa, mỹ nghệ hóa, tóm tắt, tóm lược, hoặc bất kỳ hình thức nào khác mà trong đó tác phẩm có thể được cải biên, chuyển thể hoặc bổ sung. Một tác phẩm bao hàm các bản thảo đã được biên tập lại, các lời bình chú, phân tích hoặc các sửa chữa khác về tổng thể là một tác phẩm nguyên thủy độc đáo hoàn chỉnh của tác là “tác phẩm phái sinh”
4/ Quan điểm của tác giả bình luận về tranh chấp này như thế nào?
Theo tác giả, hướng giải quyết của Tòa án đã giải quyết được việc xác định một tác phẩm có phải là tác phẩm phái sinh hay không, điều mà pháp luật hiện hành chưa giải quyết được. Bên cạnh đó,quyết định đã gợi mở them phạm vi thay đổi tác phẩm gốc mà vẫn thỏa mãn yêu cầu của một tác phẩm phái sinh.
5/ Theo quan điểm của bạn (nhóm bạn), bộ phim do Hãng phim truyện I và ông Lộc sản xuất có phải là tác phẩm phái sinh từ kịch bản của ông Ánh không? Giải thích vì sao. Điều kiện bảo hộ tác phẩm phái sinh có điểm gì đặc biệt?
Theo nhóm, bộ phim do hãng phim truyện I và ông Lộc sản xuất là tác phẩm phái sinh vì để được xem là một tác phẩm phái sinh phải thỏa mãn hai điều kiện sau: tác phẩm đó được sáng tạo trên nền tác phẩm gốc và đó phải là sự thể hiện tác phẩm gốc dưới hình thức khác. Trong bản án số 5, bộ phim “Hôn nhân không giá thú” hoàn toàn được xem là một tác phẩm phái sinh:
Thứ nhất, tác phẩm phái sinh được sáng tạo trên nền tác phẩm gốc. Bản án số 5 đã chỉ rõ rằng: theo kết luận của Hội đồng giám định Bộ Văn hóa – Thông tin, chủ đề chính của kịch bản văn học “Hôn nhân không giá thú” và bộ phim “Hôn nhân không giá thú” đều là “ca ngợi tình yêu, tình đồng đội và sự hy sinh của người lính không quân”, kịch bản văn học còn có những chủ đề khác, nhưng bộ phim tập trung chủ yếu vào chủ đề chính của kịch bản văn học. Bộ phim được xây dựng đã được lược bỏ một số nội dung của kịch bản nhưng không làm sai lệch chủ đề chính và nội dung của kịch bản văn học. Do đó, bộ phim đã thỏa mãn điều kiện thứ nhất.
Thứ hai, sự thể hiện tác phẩm phái sinh phải được thể hiện dưới hình thức khác. Tác phẩm gốc chính là kịch bản văn học “Hôn nhân không giá thú”  với loại hình nghệ thuật là “kịch bản phim”. Tác phẩm phái sinh cho kịch bản này là bộ phim cùng tên với loại hình nghệ thuật là “phim”. Khái niệm “loại hình nghệ thuật” vẫn còn mơ hồ theo quy định của pháp luật hiện hành do không có quy định cụ thể. Tuy nhiên, theo quan điểm của nhóm, hình thức thể hiện kịch bản phim là “chuyển thể” với sự chuyển đổi hình thức mà vẫn giữ nguyên bản chất, nội dung cũng như chủ đề mà kịch bản phim yêu cầu.
Từ hai lý do trên, nhóm cho rằng bộ phim “Hôn nhân không giá thú” là một tác phẩm phái sinh.
Về điều kiện bảo hộ của tác phẩm phái sinh
 Điều kiện tiên quyết để tác phẩm phái sinh được bảo hộ là không làm phương hại đến tác phẩm gốc: Tác phẩm phái sinh được hình thành dựa trên một/những tác phẩm đã tồn tại. Tác phẩm đã tồn tại có thể là tác phẩm còn hoặc đã hết thời hạn bảo hộ quyền tác giả. Tác phẩm gốc phải là tác phẩm mà người sáng tạo tác phẩm phái sinh dựa trên đó để sáng tạo tác phẩm của mình. Do đó, tác phẩm hỗ trợ tác giả tra từ điển trong quá trình sáng tạo tác phẩm không được coi là tác phẩm gốc.
      Tác phẩm phái sinh phải  đảm bảo tính nguyên gốc: Tác giả phải tự mình sáng tạo tác phẩm của mình mà không sao chép từ một/những tác phẩm khác. Thuật ngữ "tác phẩm khác"  được hiểu là kể cả những tác phẩm của chính tác giả sáng tạo tác phẩm phái sinh. Do đó, một tác phẩm phái sinh muốn được bảo hộ thì nó phải mang dấu ấn cá nhân của mình.[10]
Đặc trưng quan trọng nhất của tác phẩm phái sinh là được sáng tạo dựa trên tác phẩm gốc. Chính vì đặc trưng này mà tác phẩm đó không thể làm ảnh hưởng đến quyền tác giả của tác phẩm gốc. Khoản 2 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ qui định: “Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh”.




[1] Điều 16 Luật SHTT.
[2] Lê Niết, Nguyễn Xuân Quang và các tác giả khác (2015), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ, NXB Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh, tr.61-62.
[3] Tr.85-86 (sđd).
[4] Trần Minh Dũng, “Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính”, http://thanhtra.most.gov.vn/vi/cac-bai-nghien-cuu-shtt/bao-ve-quyen-so-huu-tri-tue-bang-bien-phap-hanh-chinh, (truy cập lần cuối ngày 02/09/2017).
[5] Trịnh Văn Tú,” Bảo hộ quyền liên quan theo Luật sở hữu trí tuệ việt nam”. repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/5532/1/00050001432.pdf, (Truy cập lần cuối ngày 3 tháng 9 năm 2017).
[6] Quốc hội (1992), Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.
[7] Nguồn: http://www.dhluathn.com/2014/06/2-vu-viec-ve-tranh-chap-quyen-tac-gia.html (truy cập lần cuối ngày 30/8/2017)

[9] Trường Đại học Luật TP.HCM, Sách tình huống Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, NXB Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, 2016, trang 90 đến 112.
[10]  Nguồn: http://lamchuphapluat.vn/m/Dieu-kien-bao-ho-tac-pham-phai-sinh-1567-mct.aspx (truy cập lần cuối  ngày 04/9/2017)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Luật sư - Dân sự - Ho so 9 - YD và Thu ver 2

Luật sư - Dân sự - Ho so 9 - YD và Thu

Hình sự- Bài tập - CÁC TỘI PHẠM VỀ QUẢN LÝ