Dân sự - Hợp đồng - Bài tập lớn học kỳ

Truy cập website mới để xem và tải nhiều tài liệu hơn nhé --> tuihocluat.com


Đóng góp bởi: Linh Hoàng
Vấn đề 1: Thông tin trong giao kết hợp đồng.
Câu 1: Theo Tòa án, bên bán có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bên mua về lô đất chuyển nhượng không?
Về việc bên bán có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bên mua về lô đất thì Tòa án không đề cập về vấn đề này mà chỉ xét dựa trên những lời khai của nguyên đơn và bị đơn:
“Xét yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Hà Văn Linh thì thấy rằng: Mục đích vợ chồng ông Linh mua  đất là để xây dựng nhà ở mà phải là đất thổ cư theo quy định của pháp luật; Tuy nhiên diện tích đất mà vợ chồng ông Thành bán cho vợ chồng ông Linh là đất vườn theo nghị định 64 của Chính phủ và đã có thông báo thu hồi đất nhưng khi giao kết hợp đồng đặt cọc vợ chồng ông Thành không cung cấp rõ thông tin về lô đất; Mặt khác quyền sử dụng đất mà vợ chồng ông Thành chuyển nhượng cho vợ chồng ông Linh không thuộc quyền sử hữu của mình mà của ông Trần Dậu nhưng vợ chồng ông Thành chuyển nhượng cho vợ chồng ông Linh. Vì vậy việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất là không hợp pháp cho nên hợp đồng đặt cọc giữa vợ chồng ông Hà Văn Linh và vợ chồng ông Đỗ Kim Thành đương nhiên vô hiệu”.

Câu 2: Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có buộc bên bán phải cung cấp thông tin về lô đất chuyển nhượng không? Vì sao?
-         BLDS 2015 có quy định về vấn đề này. Cụ thể tại Khoản 1 Điều 387 quy định: “Trường hợp một bên có thông tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của bên kia thì phải thông báo cho bên kia biết.” Tuy nhiên, BLDS lại không quy định rõ chế tài xử lý nếu vi phạm, ngoài trừ trong trường hợp gây thiệt hại thì phải bồi thường. Đây là một điều mới so với BLDS 2005 tuy nhiên BLDS 2005 vẫn ghi nhận điều này như trong Điều 442 và khoản 1 Điều 451 BLDS 2005 về hợp đồng mua bán tài sản”.
-         Đối với BLDS 2005, “Đây cũng chỉ là quy định rất chuyên biệt, chưa phải là quy định có phạm vi điều chỉnh chung cho việc giao kết hợp đồng. Trước sự thiếu vắng quy định chung về nghĩa vụ cung cấp thông tin, Tòa đã khai thác quy định về thiện chí, trung thực hay lừa dối để buộc bên có thông tin phải cung cấp thông tin cho bên kia.”[1]
-         Thế nên, chúng ta có thể áp dụng nguyên tắc “thiện chí, trung thực” trong xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự được quy định tại khoản 3 Đ.3 để giải quyết, làm rõ vụ việc trên.
-         Về mặt quy định, hiện nay BLDS chỉ quy định một cách khái quát chứ không nêu rõ định nghĩa, khái niệm của “thiện chí, trung thực”. Nhìn chung, nguyên tắc “trung thực” trong giao kết hợp đồng là không có sự gian dối, bất minh trong giao kết, nhất là việc cung cấp các thông tin trong giao kết hợp đồng phải đúng sự thật, không xuyên tạc hay bóp méo sự thật. Mọi sự gian dối, lừa dối, giấu giếm các thông tin có hại, bất lợi để nhằm mục đích làm cho bên kia tin là ký hợp đồng có lợi cho mình mà bỏ qua các điểm bất lợi, có thể bị coi là không trung thực khi giao kết hợp đồng[2].

Câu 3: Việc Tòa án đã theo hướng giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn có thuyết phục không? Vì sao?
*  Quan điểm 1:
-         Tòa án chỉ quan tâm đến hậu quả của việc nhầm lẫn dẫn đến không đạt được mục đích của giao dịch. Thực chất nhầm lẫn trong giao dịch dân sự “là sự không trùng hợp ý chí được thể hiện với mong muốn thật sự của người thể hiện ý chí”. Trong một bài viết nghiên cứu đã nêu “Chúng tôi (cho rằng) không nên chỉ lấy tiêu chí đạt hay không đạt được mục đích của giao dịch dân sự để xác định nhầm lẫn là điều kiện để yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, mà còn cần phải xem xét vấn đề người mua và những người bình thường khác có ký kết hợp đồng hay không nếu họ biết được tình trạng thực tế liên quan đến hợp đồng”[3].

-         Cụ thể, ta phải xem xét liệu người bị nhầm lẫn có “biết hoặc phải biết” rằng họ bị nhầm lẫn khi giao kết hợp đồng hay không. Trong trường hợp này, bên bị nhầm lẫn mặc dù không biết nhưng xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể họ buộc phải biết về khả năng họ bị nhầm lẫn nhưng đã không có những hành vi, biện pháp để khắc phục (trong tình huống này, những người bình thường khác sẽ không ký kết hợp đồng, thực hiện giao dịch). Như vậy, mặc dù không đạt được mục đích của hợp đồng nhưng bên bị nhầm lẫn không có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu.

-         Theo đó, trong hoàn cảnh trên, hướng giải quyết của Tòa án là không hợp lý. Vì thông tin về việc thu hồi đất cũng như quyền sử dụng đất của lô đất trên, vợ ông ông Linh đã không xác thực rõ ràng, chính xác. Như vậy, họ đã không có những hành vi, biện pháp để khắc phục.

* Quan điểm 2:
 Do Tòa án áp dụng BLDS 2005 để giải quyết về vấn đề này cho nên không có Điều 387 của BLDS 2015 điều chình về thông tin trong giao kết hợp đồng. Do vậy, việc Tòa án áp dụng Điều 131 của BLDS 2005 là hợp lý bởi vì các lý do sau:
·       Căn cứ theo Luật Đất đai 2013, Điều 167 quy định “Người sử dụng đất được thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này.” Việc anh Thành bán cho bà Lộc lô đất để xây nhà ở là một hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Điều 689 BLDS 2005 “Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật.” và việc chuyển nhượng trên được thực thông qua hợp đồng.
·       Luật Đất đai 2013 và BLDS 2005 không đề cập đến việc bên bán lô đất phải có nghĩa vụ thông báo cho bên mua. Do vậy, việc bên ông Thành cung cấp thông tin không rõ về mảnh đất (vì đã cho rằng đây là đất thổ cư, xây nhà ở được). Từ thông tin đó nên bà Lộc đã chấp nhận mua lô đất trên mà không kiểm tra thông tin về lô đất mình đang tính mua. à Lỗi của 2 bên.
·       Nhầm lẫn trong giao dịch dân sự “là sự không trùng hợp ý chí được thể hiện với mong muốn thật sự của người thể hiện ý chí”. Tòa án đã xem xét về điều kiện giao dịch dân sư trên không đạt được mục đích của các bên do lô đất này đã được thông báo quy hoạch giải tỏa.
·       Do việc anh Thành không cung cấp rọ thông tin về lô đất (cố ý) à Bà Lộc bị nhẫm lẫn khi mua lô đất trên dể phục vụ cho việc xây dựng nhà ở à Áp dụng Điều 131 BLDS 2005 quy định “trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này.”

Câu 4: Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có cho phép xử lý theo hướng giao dịch chuyển nhượng vô hiệu do nhầm lẫn không? Vì sao? 
-         BLDS 2015 đã có sự thay đổi vượt bậc để khắc phục vấn đề trong vụ án nêu trên. Căn cứ theo khoản 1 Điều 387 BLDS 2015 thì “Trường hợp một bên có thông tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của bên kia thì phải thông báo cho bên kia biết.”
-         Từ quy định nêu trên, chúng ta có thể thấy trong trường hợp này anh Thành phải thông báo cho bà Lộc biết về vấn đề lô đất này bị quy hoạch giải tỏa (Vì nó ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng).
-         Mà theo tình tiết vụ án thì anh Thành đã cung cấp thông tin không rõ ràng (Đây có thể hành vi không trung thực, thiện chí hoặc lừa dối trong giao kết) à Đây là một hành vi lửa dối. Do BLDS 2015 đã sửa đổi về Điều 126 thì không còn quy định như BLDS 2005 có dẫn chiếu đến điều 132. Do vậy chúng ta không thể áp dụng Điều 126 mà phải áp dụng Điều 127 BLDS 2015.

Vấn đề 2: Hậu quả hợp đồng vô hiệu

Câu 1: Thay đổi về hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa BLDS 2005 và BLDS 2015
-         BLDS 2005 có quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sư vô hiệu (Khoản 2 Điều 137): “trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật.” Ở đây chúng ta có thể thấy được rằng hoa lợi, lợi tức nếu không thuộc trường hợp bị tịch thu thì nó phải được hoàn trả lại cho người đã giao tài sản. Do nằm trong phần “khôi phục lại trạng thái ban đầu” à Khi hoa lợi, lợi túc phát sinh sẽ được giải quyết như thế nào khi nó làm thay đổi trạng thái ban đầu của tài sản.
-         BLDS 2015 đã khắc phục vấn đề trên, tách hoa lợi, lợi tức ra một khoản riêng (khoản 3 Điều 131) và không còn phụ thuộc vào việc “khôi phục lại trạng thái ban đầu”.

Câu 2: Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Tòa giám đốc thẩm xác định như thế nào?
Trong quyết định số 319, Tòa giám đốc thẩm đã xác định cả 2 bên cùng có lỗi:
·       Nguyên đơn (ông Vinh): không thực hiện nghĩa vụ trả tiền thanh toán đợt 2 theo thỏa thuận các bên.
·       Bị đơn (ông Lộc, bà Lan): Do không giao sổ theo đúng thỏa thuận.

Câu 3: Quyết định số 319, Tòa án dân sự cho biết ông Vinh sẽ được bồi thường như thế nào?
Ông Vinh chỉ được bồi thường thiệt hại là 1/2 chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường.

Câu 4: Suy nghĩ của anh về việc hướng giải quyết của Tòa dân sự.
 Hướng giải quyết của Tòa án là hợp lý:
·       Hướng giải quyết trên là phù hợp với tinh thần của NQ số 02/2004/NQ-HĐTP: “thiệt hại còn bao gồm khoản tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất do các bên thỏa thuận với giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm hoặc các thiệt hại khác, nếu có”. Trong vụ việc trên, khi bên mua chỉ thanh toán được một phần giá trị hợp đồng thì tỷ lệ thanh toán của khoản tiền chênh lệch chính là thiệt hại

·       Về xem xét mức độ lỗi của các bên, thực tế cho thấy, đối với hợp đồng mua bán (chuyển nhượng), Tòa án thường xác định bên bán có lỗi nhiều hơn. Tuy nhiên, khi hợp đồng vi phạm điều cấm thì cần phải coi cả hai có lỗi như nhau (với hệ quả mỗi người phải chịu 1/2 thiệt hại). Do điều cấm là quy định trong luật bắt buộc đối với mỗi người. [4]Trong vụ việc trên, Tòa đã khẳng định “diện tích 953m2 đất mà vợ chồng ông Lộc chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên 9/9/2005 là đất trồng lúa. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên không được chính quyền địa phương cho phép chuyển nhượng”.

Câu 5: Với thông tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Số tiền ông Vinh được bồi thường: 1/2 x 45% x 333.550.000đ = 52.548.750vnđ vì theo quyết định của Tòa án thì ông Vinh chỉ được bồi thường thiệt hại là 1/2 chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường.

Câu 6: Trong Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy sau khi nhận giấy chuyển nhượng của ông Khải, bà Linh và bà Ngẫu (giao dịch thứ nhất), anh Long đã chuyển nhượng đất (giao dịch thứ hai) Doanh nghiệp Tấn Hưng?
 Đoạn trong quyết định cho thấy: “Ngày 9-4-1991, mặc dù không có mặt ông Nhơn và không có ý kiến của ông Nhơn, nhưng ông Khải, bà Linh, bà Ngẫu làm giấy sang nhượng phần đất thổ cư của ông Nhơn cho ông Long với giá 1.600.000đ (giấy có xác nhận của tự quản ấp)… nhưng do ông Long đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xây dựng nhà kho và đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất nêu trên (trong đó có cả diện tích của ông Long) cho Doanh nghiệp tư nhân Tuấn Hưng”.

Câu 7: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Anh Long đã được cấp giấy chứng nhận quyền sữ dụng đất sau khi nhận giấy chuyển nhượng từ ông Khải, bà Linh và bà Ngẫu.
Đoạn trong bản án cho thấy: “ông Long đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xây dựng nhà kho và đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất nêu trên (trong đó có cả diện tích của ông Long) cho Doanh nghiệp tư nhân Tuấn Hưng”.

Câu 8: Đoạn nào của Quyết định 58 cho thấy giao dịch thứ nhất vô hiệu?
 Đoạn quyết định cho thấy giao dịch thứ nhất vô hiệu: “Ngày 9-4-1991, ông Khải, bà Linh, bà Ngẫu lập giấy tay sang nhượng phần đất nêu trên cho anh Long với giá 1.600.000đ (giấy có xác nhận của tự quản ấp). Như vậy, giao dịch dân sự về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Khải, bà Linh, bà Ngẫu với anh Long vi phạm điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 122 Bộ luật dân sự nên bị vô hiệu theo Điều 128, và Điều 134 Bộ luật dân sự.”

Câu 9: Trong Quyết định só 58, Tòa dân sự có cho biết giao dịch thứ hai vô hiệu không?
 Trong quyết định của Tòa án không cho biết giao dịch thứ 2 bị vô hiệu.

Câu 10: Theo anh/chị giao dịch thứ hai có vô hiệu không?
 Theo quan điểm của nhóm, giao dịch thứ hai bị vô hiệu
·       Trong Quyết định số 58/2011/DS-GĐT, có hai giao dịch gồm: giao dịch thứ nhất giữa ông Khải, bà Linh và bà Ngẫu với anh Long (giao dịch này đã tuyên vô hiệu); giao dịch thứ hai là giao dịch giữa anh Long và Doanh nghiệp tư nhân Tuấn Hưng. Tại trường hợp trên thì Doanh nghiệp tư nhân Tấn Hưng được xem là bên thứ ba.
·       DNTN Tuấn Hưng đã mua phần đất được bán từ anh Long thong qua hợp đồng chuyển nhượng.
·       Theo đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 138 BLDS 2005 về “Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu” quy định như sau:
Trong trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa”. 
Vấn đề 3: Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có thời hạn
Câu 1: Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn như thế nào?
Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn từ ngày 20/12/2010 đến ngày 10/3/2011.
Theo thông tư số 28/2012/TT-NHNN về thời hạn bảo lãnh:
Điều 18. Thời hạn bảo lãnh
1. Thời hạn bảo lãnh được xác định từ ngày phát hành bảo lãnh hoặc khi bảo lãnh có hiệu lực theo thỏa thuận của bên bảo lãnh với các bên liên quan cho đến thời điểm hết hiệu lực của bảo lãnh được ghi trong cam kết bảo lãnh. Trường hợp cam kết bảo lãnh không ghi cụ thể thời điểm hết hiệu lực của bảo lãnh thì thời điểm hết hiệu lực của bảo lãnh được xác định tại thời điểm nghĩa vụ bảo lãnh hết hiệu lực theo quy định tại Điều 21 của Thông tư này.
2. Trường hợp ngày hết hiệu lực bảo lãnh trùng vào ngày nghỉ, ngày lễ, tết thì ngày hết hiệu lực được chuyển sang ngày làm việc tiếp theo.
3. Việc gia hạn bảo lãnh do các bên thỏa thuận.

Câu 2: Nghĩa vụ của công ty Hồng Quang đối với VNP1 có phát sinh trong thời hạn bảo lãnh của Ngân hàng không?
Nghĩa vụ của công ty Hồng Quang đối với VNP1 có phát sinh trong thời hạn bảo lãnh.
“Về hiệu lực của Thư bảo lãnh số 1500VSB201220102 ngày 20/12/2010 của Ngân hàng: Nghĩa vụ trả nợ của Công ty Hồng Quang đối với VNP1 phát sinh từ giao dịch được giao kết trong thời hạn từ ngày 20/12/2010 đến ngày 10/3/2011, là thời hạn Thư bảo lãnh có hiệu lực nên người bảo lãnh là Ngân hàng phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi Công ty Hồng Quang không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”. Đoạn trên của bản án đã cho biết về vấn đề trên.

Câu 3: Theo Viện kiểm sát, khi người có quyền khởi kiện Ngân hàng trả nợ thay thì Thư bảo lãnh còn ràng buộc ngân hàng không? Vì sao?
Theo VKS, thư bảo lãnh lúc này không còn ràng buộc Ngân Hàng căn cứ theo khoản 4 Điều 20 Quy chế bảo lãnh (Ban hành kèm theo QĐ số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/6/2006 của Thống đốc NHNNVN)

Câu 4: Theo Tòa án nhân dân tối cao, khi người có quyền khởi kiện Ngân hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng có còn trách nhiệm của người bảo lãnh không? Đoạn nào của quyết định cho câu trả lời?
 Theo Tòa án nhân dân tối cao, khi người có quyền khởi kiện Ngân hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng vẫn còn trách nhiệm của ngưởi bảo lãnh.
 Trong phần Xét thấy của Quyết định có đoạn: “Kháng nghị cho rằng, ngày 12/12/2011, VNP1 khởi kiện yêu cầu Ngân hàng trả nợ thay Công Ty Hồng Quang thì Thư bảo lãnh không còn hiệu lực theo quy định tại khoản 4 Điều 20 Quy chế bảo lãnh (Ban hành kèm theo Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/6/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) là không đúng.

Câu 5: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao.
(Tuy đã hết thời hạn bảo lãnh, nhưng do công ty Hồng Quang đã không có khả năng thanh toán hợp đồng nên trách nhiệm bảo lãnh vẫn còn đối với ngân hàng Agribank.)
Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao là hợp lý:
·       Bởi nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hàng là nghĩa vụ có điều kiện, theo đó “nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ” (Khoản 1 Điều 361 BLDS 2005). Ở đây, khi đến thời hạn Công ty Hồng Quang chưa thanh toán hết nợ cho Trung tâm Dịch vụ Viễn thông 1 (VNP1) mà Ngân hàng có phát hành thư bảo lãnh cho Công ty Hồng Quang nên VNP1 khởi kiện Ngân hàng là hợp lý.
·       Tuy nhiên, do Công ty Hồng Quang và VNP1 chưa thỏa thuận rõ ràng về chiết khấu bổ sung giữa hai bên và từ đó làm phát sinh ra khoản nợ giữa Công ty Hồng Quang và VNP1 là chưa có sự thống nhất.
·       Do đó Tòa tối cao chưa buộc Ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Điều này là hoàn toàn phù hợp, bởi nếu hai bên chưa thỏa thuận được về vấn đề chiết khấu đồng nghĩa với việc chưa thỏa thuận được về vấn đề tiền nợ cần phải thanh toán. Theo đó không thể buộc Ngân hàng phải có nghĩa vụ thanh toán thay được.

Ø Do đó, hướng giải quyết của Tòa tối cao là thuyết phục.
Vấn đề 4: Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Câu 1: Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?
Đoạn cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra:
 “Khi giải quyết vụ án, Tòa án cần xác định rõ đường dây điện đó do ai quản lí, sử dụng; từ đó căn cứ vào điều 623 Bộ luật dân sự và Nghị định 45/2001/NĐCP ngày 02-08-2001 của Chính phủ quy định về hoạt động điện lực và sử dụng điện để giải quyết.”

Câu 2: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định dây là bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm xảy ra là hợp lí. Khoản 1 Điều 624 BLDS 2005 quy định:
“Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.”
Trong trường hợp này, có thiệt hại xảy ra và thiệt hại xảy ra là do hệ thống tải điện. Vì vậy, Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm xảy ra là có căn cứ.

Câu 3: Tòa án dân sự có cho biết ai là chủ sở hữu đường dân điện hạ thế gây thiệt hại không?
 Tòa dân sự không cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại.

Câu 4: Theo anh/chị, ai là chủ sở hữu đường dây hạ thế gây thiệt hại
Theo nhóm em, chủ sở hữu đường dây hạ thế gây thiệt hại là anh Trần Văn Ri.

Câu 5: Theo Tòa dân sự, chủ thể nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho nạn nhân?
Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ.

Câu 6: Suy nghĩ của anh/ chĩ về hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao liên quan đến xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân
Phù hợp với quy định của pháp luật. Khoản 2 điều 623 Bộ luật dân sự 2005: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”
Ø Vì vậy, Tòa dân sự yêu cầu Tòa sơ thẩm làm rõ người chủ sở hữu, người chiếm hữu sử dụng để xác định người chịu trách nhiệm bồi thường là đúng theo quy định của pháp luật.

Vấn đề 5: Bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra

Câu 1: Những khác biệt cơ bản về thiệt hại được bồi thường khi một cá nhân chết theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và BLDS.
Khác biệt cơ bản về bồi thường thiệt hại khi một cá nhân chết theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 và BLDS 2015
Nội dung
Luật trách nhiệm bồi thường hại của NN
BLDS 2015
CSPL
Điều 25, Điều 27
Điều 591, Điều 593
Những chi phí phải bồi thường
1. Chi phí khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh cho người bị thiệt hại trước khi chết.
2. Chi phí bồi dưỡng sức khỏe cho người bị thiệt hại trước khi chết được xác định là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cho 01 ngày khám bệnh, chữa bệnh theo số ngày trong hồ sơ bệnh án.
3. Chi phí cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian khám bệnh, chữa bệnh trước khi chết được xác định là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cho 01 ngày chăm sóc người bị thiệt hại.
4. Chi phí cho việc mai táng người bị thiệt hại chết được xác định theo mức trợ cấp mai táng theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Và bồi thường thiệt hại về tinh thần cho gia đình nạn nhân.
a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;
b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng.
c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
d) Thiệt hại khác do luật quy định.
Và bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại
Chi phí mai táng
 Xác định theo mức trợ cấp mai táng theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.

Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp đưỡng
·       Một tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người được cấp dưỡng đang cư trú cho mỗi tháng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
·       Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc đã được xác định theo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Không nói rõ số tiền cụ thể.
Mức bồi thường thiệt hại về tinh thần cho gia đình người bị thiệt hại về tính mạng
·       Được xác định là 360 tháng lương cơ sở.  
·       Trường hợp người bị thiệt hại chết thì không áp dụng bồi thường thiệt hại về tinh thần quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 27.
Nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

Câu 2: Hoàn cảnh như trên có được Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước Điều chỉnh không? Vì sao?
Quan điểm 1: Trường hợp trong bản án trên có thuộc phạm vi điều chỉnh của Luât trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Vì trong trường hợp này, người thi hành công vụ, cụ thể là 5 bị cáo, là người thi hành công vụ, đã gây tử vong cho anh Ngô Thanh Kiều trong quá trình thi hành nhiệm vụ. Tòa án cũng đã xét thấy rằng việc bắt giữ là có căn cứ và cần thiết, chỉ vi phạm về hình thức và thủ tục tố tụng, …
Theo quy định tại Điều 1,2 và Khoản 2 Điều 3 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017.
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án; thiệt hại được bồi thường; quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại; cơ quan giải quyết bồi thường; thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường; phục hồi danh dự; kinh phí bồi thường; trách nhiệm hoàn trả; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong công tác bồi thường nhà nước.
Điều 2. Đối tượng được bồi thường
Cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần do người thi hành công vụ gây ra thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được quy định tại Luật này.
Điều 3. Giải thích từ ngữ
2. Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và pháp luật có liên quan vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án hoặc người khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án.
Ø Như vậy trường hợp của Kiều sẽ được bồi thường theo Luật trách nhiệm bồi thường của NN
Quan điểm 2: Hoàn cảnh như trên không thuộc phạm vị giải quyết của Luật Trách nhiềm bồi thường thiệt hại của NN. Bời vì việc làm của lực lượng công an Tỉnh Phú Yên là “trái pháp luật bởi không có lệnh bắt giữ Kiều cũng như không có chuyện “mời về làm việc” vào lúc 3h sáng đồng thời còng tay Kiều. Việc giữ Kiều tại CA TP Tuy Hòa cũng vi phạm luật tố tụng hình sự, bởi tại thời điểm bị bắt Ngô Thanh Kiều chưa phải là bị can, bị cáo và không có chứng cứ gì chứng minh Kiều tham gia các vụ trộm ngoài lời khai của Ngô Thanh Sơn (nhưng Trần Minh Cường khai Kiều chỉ đi theo học lái xe, không biết gì về các vụ trộm)”.[5]
Như vậy các bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho gia đình và người nhà nạn nhân theo qui định của BLDS.
Câu 3: Nếu hoàn cảnh của vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực, hướng giải quyết có khác với hướng giải quyết trong vụ án không? Vì sao?
 Bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra.


[1] Xem Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam, sđd, Tập 1, Bản án số 33-35.
[2]. Giai đoạn tiền hợp đồng trong pháp luật Việt Nam - TS. Lê Trường Sơn, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.77
[3]. Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn theo Bộ Luật Dân sự năm 2015 - PGS.TS Dương Anh Sơn - ĐH Kinh tế - Luật TP.HCM

[4].  PGS.TS Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam – Bàn án và Bình luận bản án tr. 97
[5] Lời bào chữa của Luật sư bảo vệ cho quyền và lợi ích của gia đình người bị hại  tại phiên tòa Phúc thẩm vào ngày 9/9/2016 tại TAND cấp cao tại Đà Nẵng

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Luật sư - Dân sự - Ho so 9 - YD và Thu ver 2

Luật sư - Dân sự - Ho so 9 - YD và Thu

Luật sư - Dân sự - Ho so 13 - Công ty Kim Lân - Công ty Nhật Linh ver 2