Dân sự - Hợp đồng - Bài tập lớn học kỳ
Truy cập website mới để xem và tải nhiều tài liệu hơn nhé --> tuihocluat.com
Đóng góp bởi: Linh Hoàng
Vấn đề 1: Thông tin trong giao kết hợp đồng.
Câu 1: Theo Tòa án, bên bán có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bên mua về lô đất
chuyển nhượng không?
Về việc bên
bán có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bên mua về lô đất thì Tòa án không đề cập
về vấn đề này mà chỉ xét dựa trên những lời khai của nguyên đơn và bị đơn:
“Xét yêu cầu khởi kiện của vợ chồng
ông Hà Văn Linh thì thấy rằng: Mục đích vợ chồng ông Linh mua đất là để xây dựng nhà ở mà phải là đất thổ
cư theo quy định của pháp luật; Tuy nhiên diện tích đất mà vợ chồng ông Thành
bán cho vợ chồng ông Linh là đất vườn theo nghị định 64 của Chính phủ và đã có
thông báo thu hồi đất nhưng khi giao kết hợp đồng đặt cọc vợ chồng ông Thành
không cung cấp rõ thông tin về lô đất; Mặt khác quyền sử dụng đất mà vợ chồng
ông Thành chuyển nhượng cho vợ chồng ông Linh không thuộc quyền sử hữu của mình
mà của ông Trần Dậu nhưng vợ chồng ông Thành chuyển nhượng cho vợ chồng ông
Linh. Vì vậy việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất là không hợp pháp cho nên hợp
đồng đặt cọc giữa vợ chồng ông Hà Văn Linh và vợ chồng ông Đỗ Kim Thành đương
nhiên vô hiệu”.
Câu 2: Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có buộc bên bán phải cung
cấp thông tin về lô đất chuyển nhượng không? Vì sao?
-
BLDS
2015 có quy định về vấn đề này. Cụ thể tại Khoản 1 Điều 387 quy định: “Trường hợp một bên có thông tin ảnh hưởng đến
việc chấp nhận giao kết hợp đồng của bên kia thì phải thông báo cho bên kia biết.”
Tuy nhiên, BLDS lại không quy định rõ chế tài xử lý nếu vi phạm, ngoài trừ
trong trường hợp gây thiệt hại thì phải bồi thường. Đây là một điều mới so với
BLDS 2005 tuy nhiên BLDS 2005 vẫn ghi nhận điều này như trong Điều 442 và khoản
1 Điều 451 BLDS 2005 về hợp đồng mua bán tài sản”.
-
Đối
với BLDS 2005, “Đây cũng chỉ là quy định rất chuyên biệt, chưa phải là quy định
có phạm vi điều chỉnh chung cho việc giao kết hợp đồng. Trước sự thiếu vắng quy
định chung về nghĩa vụ cung cấp thông tin, Tòa đã khai thác quy định về thiện
chí, trung thực hay lừa dối để buộc bên có thông tin phải cung cấp thông tin
cho bên kia.”[1]
-
Thế
nên, chúng ta có thể áp dụng nguyên tắc “thiện chí, trung thực” trong xác lập,
thực hiện, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự được quy định tại khoản 3 Đ.3 để
giải quyết, làm rõ vụ việc trên.
-
Về
mặt quy định, hiện nay BLDS chỉ quy định một cách khái quát chứ không nêu rõ định
nghĩa, khái niệm của “thiện chí, trung thực”. Nhìn chung, nguyên tắc “trung thực”
trong giao kết hợp đồng là không có sự gian dối, bất minh trong giao kết, nhất
là việc cung cấp các thông tin trong giao kết hợp đồng phải đúng sự thật, không
xuyên tạc hay bóp méo sự thật. Mọi sự gian dối, lừa dối, giấu giếm các thông
tin có hại, bất lợi để nhằm mục đích làm cho bên kia tin là ký hợp đồng có lợi
cho mình mà bỏ qua các điểm bất lợi, có thể bị coi là không trung thực khi giao
kết hợp đồng[2].
Câu 3: Việc Tòa án đã theo hướng giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn có thuyết
phục không? Vì sao?
* Quan điểm 1:
-
Tòa
án chỉ quan tâm đến hậu quả của việc nhầm lẫn dẫn đến không đạt được mục đích của
giao dịch. Thực chất nhầm lẫn trong giao dịch dân sự “là sự không trùng hợp ý
chí được thể hiện với mong muốn thật sự của người thể hiện ý chí”. Trong một
bài viết nghiên cứu đã nêu “Chúng tôi (cho rằng) không nên chỉ lấy tiêu
chí đạt hay không đạt được mục đích của giao dịch dân sự để xác định nhầm lẫn
là điều kiện để yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, mà còn cần phải xem
xét vấn đề người mua và những người bình thường khác có ký kết hợp đồng hay
không nếu họ biết được tình trạng thực tế liên quan đến hợp đồng”[3].
-
Cụ
thể, ta phải xem xét liệu người bị nhầm lẫn có “biết hoặc phải biết” rằng họ bị
nhầm lẫn khi giao kết hợp đồng hay không. Trong trường hợp này, bên bị nhầm lẫn
mặc dù không biết nhưng xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể họ buộc phải
biết về khả năng họ bị nhầm lẫn nhưng đã không có những hành vi, biện pháp để
khắc phục (trong tình huống này, những người bình thường khác sẽ không ký kết hợp
đồng, thực hiện giao dịch). Như vậy, mặc dù không đạt được mục đích của hợp đồng
nhưng bên bị nhầm lẫn không có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
-
Theo
đó, trong hoàn cảnh trên, hướng giải quyết của Tòa án là không hợp lý. Vì thông
tin về việc thu hồi đất cũng như quyền sử dụng đất của lô đất trên, vợ ông ông
Linh đã không xác thực rõ ràng, chính xác. Như vậy, họ đã không có những hành
vi, biện pháp để khắc phục.
* Quan điểm
2:
Do Tòa án áp dụng BLDS 2005 để giải quyết về vấn
đề này cho nên không có Điều 387 của BLDS 2015 điều chình về thông tin trong
giao kết hợp đồng. Do vậy, việc Tòa án áp dụng Điều 131 của BLDS 2005 là hợp lý
bởi vì các lý do sau:
·
Căn
cứ theo Luật Đất đai 2013, Điều 167 quy định “Người sử dụng đất được thực hiện
chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này.” Việc anh Thành bán
cho bà Lộc lô đất để xây nhà ở là một hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
theo Điều 689 BLDS 2005 “Hợp
đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng
thực theo quy định của pháp luật.” và việc chuyển nhượng trên được thực thông
qua hợp đồng.
·
Luật
Đất đai 2013 và BLDS 2005 không đề cập đến việc bên bán lô đất phải có nghĩa vụ
thông báo cho bên mua. Do vậy, việc bên ông Thành cung cấp thông tin không rõ về
mảnh đất (vì đã cho rằng đây là đất thổ cư, xây nhà ở được). Từ thông tin đó
nên bà Lộc đã chấp nhận mua lô đất trên mà không kiểm tra thông tin về lô đất
mình đang tính mua. à Lỗi của 2 bên.
·
Nhầm
lẫn trong giao dịch dân sự “là sự không trùng hợp ý chí được thể hiện với mong
muốn thật sự của người thể hiện ý chí”. Tòa án đã xem xét về điều kiện giao dịch
dân sư trên không đạt được mục đích của các bên do lô đất này đã được thông báo
quy hoạch giải tỏa.
·
Do
việc anh Thành không cung cấp rọ thông tin về lô đất (cố ý) à Bà Lộc
bị nhẫm lẫn khi mua lô đất trên dể phục vụ cho việc xây dựng nhà ở à Áp dụng
Điều 131 BLDS 2005 quy định “trong
trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch
thì được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này.”
Câu 4: Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có cho phép xử lý theo hướng
giao dịch chuyển nhượng vô hiệu do nhầm lẫn không? Vì sao?
-
BLDS
2015 đã có sự thay đổi vượt bậc để khắc phục vấn đề trong vụ án nêu trên. Căn cứ
theo khoản 1 Điều 387 BLDS 2015 thì “Trường hợp một bên có thông tin ảnh hưởng
đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của bên kia thì phải thông báo cho bên kia
biết.”
-
Từ
quy định nêu trên, chúng ta có thể thấy trong trường hợp này anh Thành phải
thông báo cho bà Lộc biết về vấn đề lô đất này bị quy hoạch giải tỏa (Vì nó ảnh
hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng).
-
Mà
theo tình tiết vụ án thì anh Thành đã cung cấp thông tin không rõ ràng (Đây có
thể hành vi không trung thực, thiện chí hoặc lừa dối trong giao kết) à Đây
là một hành vi lửa dối. Do BLDS 2015 đã sửa đổi về Điều 126 thì không còn quy định
như BLDS 2005 có dẫn chiếu đến điều 132. Do vậy chúng ta không thể áp dụng Điều
126 mà phải áp dụng Điều 127 BLDS 2015.
Vấn đề 2: Hậu quả hợp đồng vô hiệu
Câu 1: Thay đổi về hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa BLDS 2005 và BLDS 2015
-
BLDS
2005 có quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sư vô hiệu (Khoản 2 Điều
137): “trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu
theo quy định của pháp luật.” Ở đây chúng ta có thể thấy được rằng hoa lợi, lợi
tức nếu không thuộc trường hợp bị tịch thu thì nó phải được hoàn trả lại cho
người đã giao tài sản. Do nằm trong phần “khôi phục lại trạng thái ban đầu” à Khi
hoa lợi, lợi túc phát sinh sẽ được giải quyết như thế nào khi nó làm thay đổi
trạng thái ban đầu của tài sản.
-
BLDS
2015 đã khắc phục vấn đề trên, tách hoa lợi, lợi tức ra một khoản riêng (khoản
3 Điều 131) và không còn phụ thuộc vào việc “khôi phục lại trạng thái ban đầu”.
Câu 2: Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Tòa giám đốc thẩm xác định
như thế nào?
Trong quyết
định số 319, Tòa giám đốc thẩm đã xác định cả 2 bên cùng có lỗi:
·
Nguyên
đơn (ông Vinh): không thực hiện nghĩa vụ trả tiền thanh toán đợt 2 theo thỏa
thuận các bên.
·
Bị
đơn (ông Lộc, bà Lan): Do không giao sổ theo đúng thỏa thuận.
Câu 3: Quyết định số 319, Tòa án dân sự cho biết ông Vinh sẽ được bồi thường
như thế nào?
Ông Vinh chỉ
được bồi thường thiệt hại là 1/2 chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo
giá thị trường.
Câu 4: Suy nghĩ của anh về việc hướng giải quyết của Tòa dân sự.
Hướng giải quyết của Tòa án là hợp lý:
· Hướng giải quyết trên là phù hợp với
tinh thần của NQ số 02/2004/NQ-HĐTP: “thiệt
hại còn bao gồm khoản tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất do các bên thỏa
thuận với giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm hoặc các thiệt
hại khác, nếu có”. Trong vụ việc trên, khi bên mua chỉ thanh toán được một
phần giá trị hợp đồng thì tỷ lệ thanh toán của khoản tiền chênh lệch chính là
thiệt hại
· Về xem xét mức độ lỗi của các bên, thực
tế cho thấy, đối với hợp đồng mua bán (chuyển nhượng), Tòa án thường xác định
bên bán có lỗi nhiều hơn. Tuy nhiên, khi hợp đồng vi phạm điều cấm thì cần phải
coi cả hai có lỗi như nhau (với hệ quả mỗi người phải chịu 1/2 thiệt hại). Do
điều cấm là quy định trong luật bắt buộc đối với mỗi người. [4]Trong
vụ việc trên, Tòa đã khẳng định “diện tích 953m2 đất mà vợ chồng ông
Lộc chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên 9/9/2005 là đất trồng lúa. Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên không được chính quyền địa phương cho
phép chuyển nhượng”.
Câu 5: Với thông tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường khoản
tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Số tiền ông
Vinh được bồi thường: 1/2 x 45% x 333.550.000đ = 52.548.750vnđ vì theo quyết định
của Tòa án thì ông Vinh chỉ được bồi thường thiệt hại là 1/2 chênh lệch giá của
45% giá trị thửa đất theo giá thị trường.
Câu 6: Trong Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy sau
khi nhận giấy chuyển nhượng của ông Khải, bà Linh và bà Ngẫu (giao dịch thứ nhất),
anh Long đã chuyển nhượng đất (giao dịch thứ hai) Doanh nghiệp Tấn Hưng?
Đoạn trong quyết định
cho thấy: “Ngày 9-4-1991, mặc dù không có mặt ông Nhơn và không có ý kiến của
ông Nhơn, nhưng ông Khải, bà Linh, bà Ngẫu làm giấy sang nhượng phần đất thổ cư
của ông Nhơn cho ông Long với giá 1.600.000đ (giấy có xác nhận của tự quản ấp)…
nhưng do ông Long đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xây dựng nhà
kho và đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất nêu trên (trong đó có cả diện
tích của ông Long) cho Doanh nghiệp tư nhân Tuấn Hưng”.
Câu 7: Đoạn nào của Quyết định
số 58 cho thấy Anh Long đã được cấp giấy chứng nhận quyền sữ dụng đất sau khi
nhận giấy chuyển nhượng từ ông Khải, bà Linh và bà Ngẫu.
Đoạn trong bản
án cho thấy: “ông Long đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, xây dựng nhà kho và đã chuyển nhượng toàn bộ diện
tích đất nêu trên (trong đó có cả diện tích của ông Long) cho Doanh nghiệp tư
nhân Tuấn Hưng”.
Câu 8: Đoạn nào của Quyết định 58 cho thấy giao dịch
thứ nhất vô hiệu?
Đoạn quyết định cho thấy
giao dịch thứ nhất vô hiệu: “Ngày
9-4-1991, ông Khải, bà Linh, bà Ngẫu lập giấy tay sang nhượng phần đất nêu trên
cho anh Long với giá 1.600.000đ (giấy có xác nhận của tự quản ấp). Như vậy,
giao dịch dân sự về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Khải, bà
Linh, bà Ngẫu với anh Long vi phạm điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 122 Bộ luật
dân sự nên bị vô hiệu theo Điều 128, và Điều 134 Bộ luật dân sự.”
Câu 9: Trong Quyết định só 58, Tòa dân sự có cho biết giao dịch thứ hai vô hiệu
không?
Trong quyết định của
Tòa án không cho biết giao dịch thứ 2 bị vô hiệu.
Câu 10: Theo anh/chị giao dịch thứ hai có vô hiệu
không?
Theo quan điểm của nhóm, giao dịch thứ
hai bị vô hiệu vì
·
Trong Quyết định số 58/2011/DS-GĐT, có
hai giao dịch gồm: giao dịch thứ nhất giữa ông Khải, bà Linh và bà Ngẫu với anh
Long (giao dịch này đã tuyên vô hiệu); giao dịch thứ hai là giao dịch giữa anh
Long và Doanh nghiệp tư nhân Tuấn Hưng. Tại trường hợp trên thì Doanh nghiệp tư nhân Tấn
Hưng được xem là bên thứ ba.
·
DNTN Tuấn Hưng đã mua
phần đất được bán từ anh Long thong qua hợp đồng chuyển nhượng.
·
Theo đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 138
BLDS 2005 về “Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi
giao dịch dân sự vô hiệu” quy định như sau:
“Trong trường hợp tài sản giao dịch là bất
động sản hoặc là động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng
một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị
vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua
bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là
chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa”.
Vấn đề 3: Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có thời
hạn
Câu 1: Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn
như thế nào?
Thư bảo lãnh
của Ngân hàng có thời hạn từ ngày 20/12/2010 đến ngày 10/3/2011.
Theo thông
tư số 28/2012/TT-NHNN về thời hạn bảo lãnh:
Điều 18. Thời hạn bảo lãnh
1. Thời hạn bảo lãnh được xác định từ
ngày phát hành bảo lãnh hoặc khi bảo lãnh có hiệu lực theo thỏa thuận của bên bảo
lãnh với các bên liên quan cho đến thời điểm hết hiệu lực của bảo lãnh được ghi
trong cam kết bảo lãnh. Trường hợp cam kết bảo lãnh không ghi cụ thể thời điểm
hết hiệu lực của bảo lãnh thì thời điểm hết hiệu lực của bảo lãnh được xác định
tại thời điểm nghĩa vụ bảo lãnh hết hiệu lực theo quy định tại Điều 21 của
Thông tư này.
2. Trường hợp ngày hết hiệu lực bảo
lãnh trùng vào ngày nghỉ, ngày lễ, tết thì ngày hết hiệu lực được chuyển sang
ngày làm việc tiếp theo.
3. Việc gia hạn bảo lãnh do các bên
thỏa thuận.
Câu 2: Nghĩa vụ của công ty Hồng Quang đối với VNP1 có phát sinh trong thời hạn
bảo lãnh của Ngân hàng không?
Nghĩa vụ của
công ty Hồng Quang đối với VNP1 có phát sinh trong thời hạn bảo lãnh.
“Về hiệu lực của Thư bảo lãnh số 1500VSB201220102 ngày
20/12/2010 của Ngân hàng: Nghĩa vụ trả nợ của Công ty Hồng Quang đối với VNP1
phát sinh từ giao dịch được giao kết trong thời hạn từ ngày 20/12/2010 đến ngày
10/3/2011, là thời hạn Thư bảo lãnh có hiệu lực nên người bảo lãnh là Ngân hàng
phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi Công ty Hồng Quang không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”. Đoạn trên của bản án đã cho biết về vấn đề trên.
Câu 3: Theo Viện kiểm sát, khi người có quyền khởi kiện Ngân hàng trả
nợ thay thì Thư bảo lãnh còn ràng buộc ngân hàng không? Vì sao?
Theo VKS,
thư bảo lãnh lúc này không còn ràng buộc Ngân Hàng căn cứ theo khoản 4 Điều 20
Quy chế bảo lãnh (Ban hành kèm theo QĐ số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/6/2006 của Thống
đốc NHNNVN)
Câu 4: Theo Tòa án nhân dân tối cao, khi người có quyền khởi kiện Ngân hàng
trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng có còn trách nhiệm
của người bảo lãnh không? Đoạn nào của quyết định cho câu trả lời?
Theo Tòa án nhân dân tối cao, khi người
có quyền khởi kiện Ngân hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì
Ngân hàng vẫn còn trách nhiệm của ngưởi bảo lãnh.
Trong phần Xét thấy của Quyết định có đoạn:
“Kháng nghị cho rằng, ngày 12/12/2011,
VNP1 khởi kiện
yêu cầu Ngân hàng trả nợ thay Công Ty Hồng Quang thì Thư bảo lãnh không còn hiệu
lực theo
quy định tại khoản 4 Điều 20 Quy chế bảo lãnh (Ban hành kèm theo Quyết định số
26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/6/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) là không
đúng.”
Câu 5: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối
cao.
(Tuy đã hết thời hạn bảo lãnh, nhưng
do công ty Hồng Quang đã không có khả năng thanh toán hợp đồng nên trách nhiệm
bảo lãnh vẫn còn đối với ngân hàng Agribank.)
Hướng giải quyết
trên của Tòa án nhân dân tối cao là hợp lý:
· Bởi
nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hàng là nghĩa vụ có điều kiện, theo đó “nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà
bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ” (Khoản
1 Điều 361 BLDS 2005). Ở đây, khi đến thời hạn Công ty Hồng Quang chưa thanh
toán hết nợ cho Trung tâm Dịch vụ Viễn thông 1 (VNP1) mà Ngân hàng có phát hành
thư bảo lãnh cho Công ty Hồng Quang nên VNP1 khởi kiện Ngân hàng là hợp lý.
· Tuy
nhiên, do Công ty Hồng Quang và VNP1 chưa thỏa thuận rõ ràng về chiết khấu bổ
sung giữa hai bên và từ
đó làm phát sinh ra khoản nợ giữa Công ty Hồng Quang và VNP1 là chưa có sự thống
nhất.
· Do đó Tòa tối cao
chưa buộc Ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Điều này là hoàn toàn phù
hợp, bởi nếu hai bên chưa thỏa thuận được về vấn đề chiết khấu đồng nghĩa với
việc chưa thỏa thuận được về vấn đề tiền nợ cần phải thanh toán. Theo đó không
thể buộc Ngân hàng phải có nghĩa vụ thanh toán thay được.
Ø Do đó,
hướng giải quyết của Tòa tối cao là thuyết phục.
Vấn đề 4: Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Câu 1: Đoạn
nào của Quyết định cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?
Đoạn cho thấy
Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra:
“Khi giải
quyết vụ án, Tòa án cần xác định rõ đường dây điện đó do ai quản lí, sử dụng; từ
đó căn cứ vào điều 623 Bộ luật dân sự và Nghị định 45/2001/NĐCP ngày 02-08-2001
của Chính phủ quy định về hoạt động điện lực và sử dụng điện để giải quyết.”
Câu 2: Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định
dây là bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Tòa án xác định
đây là bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm xảy ra là hợp lí. Khoản 1 Điều
624 BLDS 2005 quy định:
“Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ
thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy,
chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật
quy định.”
Trong trường hợp này, có thiệt hại xảy
ra và thiệt hại xảy ra là do hệ thống tải điện. Vì vậy, Tòa án xác định đây là
bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm xảy ra là có căn cứ.
Câu 3: Tòa án dân sự có cho biết
ai là chủ sở hữu đường dân điện hạ thế gây thiệt hại không?
Tòa dân sự không cho biết ai là chủ sở hữu đường
dây điện hạ thế gây thiệt hại.
Theo nhóm
em, chủ sở hữu đường dây hạ thế gây thiệt hại là anh Trần Văn Ri.
Chủ sở hữu,
người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ.
Câu 6: Suy nghĩ của anh/ chĩ về hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao liên quan đến xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại cho gia đình nạn nhân
Phù hợp với
quy định của pháp luật. Khoản 2 điều 623 Bộ luật dân sự 2005: “Chủ sở hữu nguồn
nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu
chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi
thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”
Ø Vì vậy, Tòa dân sự yêu cầu Tòa sơ thẩm
làm rõ người chủ sở hữu, người chiếm hữu sử dụng để xác định người chịu trách
nhiệm bồi thường là đúng theo quy định của pháp luật.
Vấn đề 5: Bồi thường thiệt hại do
người thi hành công vụ gây ra
Câu 1: Những khác biệt cơ bản
về thiệt hại được bồi thường khi một cá nhân chết theo Luật trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước và BLDS.
Khác biệt cơ bản về bồi thường thiệt hại khi một cá nhân chết theo Luật
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 và BLDS 2015
Nội dung
|
Luật trách
nhiệm bồi thường hại của NN
|
BLDS 2015
|
CSPL
|
Điều 25, Điều
27
|
Điều 591,
Điều 593
|
Những chi
phí phải bồi thường
|
1. Chi phí
khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh cho
người bị thiệt hại trước khi chết.
2. Chi phí
bồi dưỡng sức khỏe cho người bị thiệt hại trước khi chết được xác định là 01
ngày lương tối thiểu vùng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cho 01 ngày khám bệnh,
chữa bệnh theo số ngày trong hồ sơ bệnh án.
3. Chi phí
cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian khám bệnh, chữa bệnh
trước khi chết được xác định là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh cho 01 ngày chăm sóc người bị thiệt hại.
4. Chi phí
cho việc mai táng người bị thiệt hại chết được xác định theo mức trợ cấp mai
táng theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Và bồi thường
thiệt hại về tinh thần cho gia đình nạn nhân.
|
a) Thiệt hại
do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;
b) Chi phí
hợp lý cho việc mai táng.
c) Tiền cấp
dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
d) Thiệt hại
khác do luật quy định.
Và bù đắp tổn
thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của
người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt
hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại
|
Chi phí mai
táng
|
Xác định theo mức trợ cấp mai táng theo quy
định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
|
Chi phí hợp
lý cho việc mai táng;
|
Tiền cấp dưỡng
cho những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp đưỡng
|
· Một tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người được cấp dưỡng
đang cư trú cho mỗi tháng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
· Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc đã được xác
định theo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
|
Không nói
rõ số tiền cụ thể.
|
Mức bồi thường
thiệt hại về tinh thần cho gia đình người bị thiệt hại về tính mạng
|
· Được xác định là 360 tháng lương cơ sở.
· Trường hợp người bị thiệt hại chết thì không áp dụng bồi
thường thiệt hại về tinh thần quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 27.
|
Nếu không
thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không
quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
|
Câu 2: Hoàn cảnh như trên có được
Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước Điều chỉnh không? Vì sao?
Quan điểm 1: Trường hợp trong bản án trên có thuộc phạm vi điều chỉnh của
Luât trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Vì trong trường hợp này, người thi
hành công vụ, cụ thể là 5 bị cáo, là người thi hành công vụ, đã gây tử vong cho
anh Ngô Thanh Kiều trong quá trình thi hành nhiệm vụ. Tòa án cũng đã xét thấy rằng
việc bắt giữ là có căn cứ và cần thiết, chỉ vi phạm về hình thức và thủ tục tố
tụng, …
Theo quy định tại Điều 1,2 và Khoản 2 Điều 3 Luật trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước 2017.
Điều 1. Phạm vi điều
chỉnh
Luật này quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối
với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động
quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án; thiệt hại được bồi thường; quyền,
nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại; cơ quan giải quyết bồi thường; thủ
tục giải quyết yêu cầu bồi thường; phục hồi danh dự; kinh phí bồi thường; trách
nhiệm hoàn trả; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong công tác bồi thường
nhà nước.
Điều 2. Đối tượng được bồi thường
Cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, thiệt hại về
tinh thần do người thi hành công vụ gây ra thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước được quy định tại Luật này.
Điều 3. Giải thích từ ngữ
2. Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn,
tuyển dụng hoặc bổ nhiệm theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và
pháp luật có liên quan vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm
vụ quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án hoặc người khác được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động quản
lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án.
Ø Như vậy trường hợp của
Kiều sẽ được bồi thường theo Luật trách nhiệm bồi thường của NN
Quan điểm 2: Hoàn cảnh
như trên không thuộc phạm vị giải quyết của Luật Trách nhiềm bồi thường thiệt hại
của NN. Bời vì việc làm của lực lượng công an Tỉnh Phú Yên là “trái pháp luật bởi
không có lệnh bắt giữ Kiều cũng như không có chuyện “mời về làm việc” vào lúc
3h sáng đồng thời còng tay Kiều. Việc giữ Kiều tại CA TP Tuy Hòa cũng vi phạm
luật tố tụng hình sự, bởi tại thời điểm bị bắt Ngô Thanh Kiều chưa phải là bị
can, bị cáo và không có chứng cứ gì chứng minh Kiều tham gia các vụ trộm ngoài
lời khai của Ngô Thanh Sơn (nhưng Trần Minh Cường khai Kiều chỉ đi theo học lái
xe, không biết gì về các vụ trộm)”.[5]
Như vậy các bị cáo
phải bồi thường thiệt hại cho gia đình và người nhà nạn nhân theo qui định của
BLDS.
Câu 3: Nếu hoàn cảnh của vụ án trên xảy ra
sau khi BLDS 2015 có hiệu lực, hướng giải quyết có khác với hướng giải quyết
trong vụ án không? Vì sao?
Bồi thường thiệt hại do người của
pháp nhân gây ra.
[1]
Xem Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam, sđd, Tập 1, Bản án số 33-35.
[2].
Giai đoạn tiền hợp đồng trong pháp luật Việt Nam - TS. Lê Trường Sơn, Nxb. Hồng
Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.77
[3]. Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn theo Bộ
Luật Dân sự năm 2015 - PGS.TS Dương Anh Sơn - ĐH Kinh tế - Luật TP.HCM
[4]. PGS.TS
Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam – Bàn án và Bình luận bản án tr. 97
[5]
Lời bào chữa của Luật sư bảo vệ cho quyền và lợi ích của gia đình người bị hại tại phiên tòa Phúc thẩm vào ngày 9/9/2016 tại
TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Nhận xét
Đăng nhận xét
Bạn nào coi mà thấy sai sai hay muốn góp ý thì bình luận ở dưới đây hoặc ib cho mình qua Fb hay insta nha ^^